Xét nghiệm Anti - Tg là xét nghiệm thường được chỉ định kết hợp với xét nghiệm Tg để theo dõi và điều trị ung thư tuyến giáp. Mặc dù nồng độ Anti Tg không có giá trị đánh giá nhưng lại giúp loại bỏ trường hợp Tg âm tính giả, phát hiện ung thư tái phát và di căn.
19/06/2019 | Khi nào cần đi xét nghiệm tuyến giáp?
1. Tìm hiểu về Tg và Anti-Tg
Tg là viết tắt của Thyroglobulin, một loại protein được tổng hợp bởi tế bào nang tuyến giáp, được giải phóng cùng các hormone tuyến giáp vào máu. Vì thế, Tg được xem là dấu ấn trong các ung thư tuyến giáp thể biệt hóa chưa điều trị hoặc đã di căn ung thư tuyến giáp thể nhú, thể nang. Ngoài ra, Tg còn tăng trong một số bệnh lành tính: bướu giáp đơn thuần, basedow, suy giáp bẩm sinh, u hạch lành tính,...
Cơ thể chúng ta chống lại các tác nhân gây bệnh và bảo vệ sức khỏe bằng cách tiết ra các kháng thể đặc hiệu. Kháng thể là đặc hiệu với một kháng nguyên, khi kháng thể đã gắn trên mục tiêu, hệ miễn dịch sẽ biết để tiêu diệt chúng. Và Anti-Tg chính là kháng thể của Tg.
Một trong những nguyên nhân gây bệnh tuyến giáp là do tự miễn dịch, ở bệnh này, có 3 loại tự kháng nguyên mà tuyến giáp tạo ra gồm:
Ở 15 - 20% số bệnh nhân ung thư tuyến giáp có khả năng hệ miễn dịch tự sản xuất tự kháng thể kháng Tg, còn gọi là Anti - Tg. Kháng thể Anti - Tg làm sai lệch giá trị thật của Tg. Vì thế, xét nghiệm Anti - Tg thường được chỉ định cùng xét nghiệm Tg để tìm ra giá trị thật sự của Tg.
Ngoài ra, ở bệnh nhân có Anti - Tg dương tính, mức độ Tg thường khá nhỏ, vì thế đánh giá Tg thường nhờ kích thích Tg bằng rhTSH để phát hiện khối u tái phát.
Ung thư tuyến giáp không phải là loại ung thư thường gặp
2. Xét nghiệm Tg và Anti - Tg được chỉ định khi nào?
Xét nghiệm Tg đặc hiệu và xét nghiệm kháng thể Anti - Tg liên quan được chỉ định trong nhiều trường hợp:
Theo dõi ung thư tái phát
Sau khi cắt bỏ tuyến giáp nhưng nồng độ Tg vẫn tăng lên. Cần xét nghiệm Tg và kháng thể Anti - Tg để loại bỏ trường hợp Tg âm tính giả.
Khó khăn hơn ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp biệt hóa, diễn biến dai dẳng và nồng độ Tg thấp. Xét nghiệm Anti - Tg dương tính thì cần phải kích thích Tg bằng TSH tái tổ hợp mới phát hiện được ung thư tái phát.
Bệnh nhân nghi ngờ rối loạn tuyến giáp
Ở bệnh nhân không ung thư tuyến giáp, xét nghiệm Tg dùng để chỉ định, đánh giá triệu chứng cường giáp, phì đại tuyến giáp, hoặc nghi ngờ bệnh nhân rối loạn tuyến giáp như bệnh viêm tuyến giáp, Basedow.
Bệnh nhân suy giáp
Xét nghiệm Tg chỉ định cùng xét nghiệm Anti - Tg và kháng thể Anti - TPO để tìm hiểu nguyên nhân gây suy giáp có phải do tự kháng thể tuyến giáp hay không.
Bệnh nhân suy giáp cũng cần xét nghiệm Tg và Anti - Tg
3. Xét nghiệm Tg và Anti - Tg trong chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến giáp
Ở người ung thư tuyến giáp thể biệt hóa, Tg là một dấu ấn khối u ung thư đặc hiệu sau khi tuyến giáp bị cắt bỏ, có thể bằng phẫu thuật hay điều trị I131. Do đó, xét nghiệm Tg để đánh giá hiệu quả điều trị bệnh cũng như theo dõi, ngăn ngừa tái phát ung thư tuyến giáp thể biệt hóa.
Cụ thể, khi tuyến giáp bị cắt bỏ hoàn toàn, mức Tg giảm xuống gần bằng không. Nhưng nếu Tg vẫn tăng lên thì đây là dấu hiệu ung thư tái phát hoặc di căn.
Với ung thư tuyến giáp biệt hóa, cơ thể bệnh nhân ung thư có thể tự sản xuất kháng thể kháng Tg là Anti - Tg. Như vậy có một lượng Tg kết hợp với Anti - Tg, nên xét nghiệm không định lượng được, từ đó làm sai khác kết quả. Vì vậy, để định lượng chính xác Tg mà tuyến giáp tiết ra thì cần xét nghiệm kết hợp Tg với Anti - Tg.
Theo nhiều bác sỹ, giá trị Tg và Anti - Tg không tuyệt đối, mà nồng độ của chúng dao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố cũng như kỹ thuật định lượng tại mỗi cơ sở. Vì thế, mỗi cơ sở cần xây dựng dải nồng độ riêng để áp dụng.
Giá trị Tg ở người bình thường dao động ở mức 3,5 - 77 ng/mL, thay đổi theo từng phương pháp và giới hạn tham chiếu. Ngoài ra, khoảng 8% người bình thường có nồng độ Tg thấp dưới 10 ng/mL. Còn ở trẻ sơ sinh sau 48 giờ, mức độ Tg có thể đạt mức cao đến 36 - 38 ng/mL. Còn nồng độ Anti-Tg bình thường đều < 4,11 IU/ml ở mọi lứa tuổi.
Giá trị xét nghiệm Tg và Anti - Tg khác nhau tùy vào từng phòng xét nghiệm
4. Xét nghiệm chỉ định khác trong chẩn đoán ung thư tuyến giáp
Ung thư tuyến giáp là loại ung thư ít gặp, chỉ khoảng 1% các trường hợp bị ung thư nói chung, nhưng là ung thư của hệ thống nội tiết phổ biến nhất. Ung thư tuyến giáp gồm nhiều thể như:
Thể biệt hóa: ung thư tuyến giáp thể nang, thể nhú, thể hỗn hợp nhú - nang,…
Những loại ung thư thể biệt hóa này phổ biến, nếu chẩn đoán sớm, điều trị đúng phương pháp thì tỉ lệ chữa khỏi cao.
Chỉ ung thư biểu mô tuyến giáp thể biệt hóa được điều trị I - 131 sau khi phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp và nạo vét hạch. Ngoài ra, bệnh nhân ở tình trạng nhược giáp (TSH≥30µUI/ml), thường sau mổ cắt tuyến giáp trên 3 tuần cũng sẽ điều trị I - 131.
Ung thư tuyến giáp thể tủy, thể không biệt hóa
Những loại ung thư tuyến giáp này ít gặp hơn, nhưng khả năng di căn sớm, xâm lấn nhanh và tiên lượng kém hơn.
Bệnh nhân trước hết được thăm khám lâm sàng, làm xét nghiệm cơ bản, định lượng TSH, Tg, Anti - Tg, siêu âm, xạ hình hương, chụp CT, xạ hình toàn thân,… để kiểm tra di căn.
Ngoài ra, cũng cần thực hiện xét nghiệm huyết học, sinh hóa máu, siêu âm tổng quát, siêu âm tuyến giáp và vùng cổ, X - quang tim phổi, xạ hình xương,… để đánh giá chung.
Ung thư tuyến giáp là loại ung thư ít gặp
Nếu Tg âm tính, Anti - Tg âm tính và xạ hình toàn thân (-) thì được coi là hết bệnh, bệnh nhân điều trị T4 và theo dõi định kì. Ngược lại, hoặc Tg dương tính, hoặc Anti - Tg dương tính, hoặc xạ hình toàn thân dương tính thì nghĩa là tổ chức tuyến giáp còn hoặc ung thư di căn còn. Bệnh nhân sẽ điều trị I-131 tiếp cho đến khi đạt âm tính cả 3 chỉ số.
Như vậy, xét nghiệm Anti-Tg kết hợp với giá trị Tg có ý nghĩa lớn trong theo dõi điều trị ung thư tuyến giáp. Kết quả xét nghiệm định lượng sẽ cho biết giai đoạn tiếp theo bệnh nhân sẽ được điều trị như thế nào. Ở Việt Nam, xét nghiệm Anti - Tg đã và đang được ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
Để xét nghiệm chính xác, cần làm tại các cơ sở uy tín, có trang thiết bị hiện đại. Trung tâm Xét nghiệm của bệnh viện MEDLATEC đạt chuẩn quốc tế ISO 15189:2012, tự tin mang đến kết quả nhanh chóng và chính xác nhất.