Có một thực trạng đang diễn ra là một số bệnh do nhiễm ký sinh trùng hiếm gặp, ít ghi nhận được các trường hợp mắc bệnh trong nhiều năm thì hiện nay đã xuất hiện trở lại và được phát hiện với tần suất nhiều hơn trong đó có ký sinh trùng sán máng - một tác nhân thầm lặng gây ra những hậu quả không hề nhỏ cho con người.
06/05/2020 | Sán máng - ký sinh trùng phổ biến nhưng ít được biết đến 08/01/2013 | Bệnh viêm da do ấu trùng sán máng
1. Bệnh sán máng là gì?
Bệnh sán máng là bệnh do nhiễm ký sinh trùng gây ra bởi các loài sán thuộc giống Schistosoma. Có 3 loài khả năng lây nhiễm cao cho con người là: S.haematobium, S.japonicum, S.mansoni; hai loài khác ít có khả năng gây bệnh hơn là S.mekongi và S.in-tercalatum. Bên cạnh đó còn một số loài khác kí sinh ở động vật có vú gây viêm da do nấm cho con người.
2. Nguồn lây nhiễm và phương thức lây truyền của bệnh
2.1. Vòng đời sinh học của sán máng
Sán máng trưởng thành ký sinh ở các mạc treo của hệ tĩnh mạch của con người, tại đây chúng giao phối và sản xuất trứng.
Hình 1: Vòng đời sinh trưởng và phát triển của sán máng
Trứng đã thụ tinh được thải ra môi trường qua phân, nước tiểu, hoặc di chuyển theo đường tĩnh mạch ở lại các mô gây viêm gây viêm tại chỗ.
Những trứng được thải ra ngoài gặp môi trường nước ngọt sẽ nở, giải phóng ấu trùng lông sống tự do sau đó ký sinh trên ốc sên.
Trong ốc sên, trùng lông trải qua quá trình sinh sản vô tính giải phóng ấu trùng đuôi vào nước.
Ấu trùng đuôi là dạng lây nhiễm cho con người, bơi trong nước sẽ xâm nhập được vào người qua da, hoặc đường uống tới các mao mạch bạch huyết theo tuần hoàn ruột rồi cư trú ở hệ tĩnh mạch cửa.
Sau khoảng 2 tháng sẽ phát triển thành sán trưởng thành, tiếp tục chu kỳ phát triển và gây bệnh.
Tuổi thọ trung bình của chúng thường từ 3 - 5 năm, có nhiều cá thể sống được tới 30 năm.
2.2. Phương thức lây truyền
Chúng có thể xâm nhập vào cơ thể người trong các trường hợp:
-
Trong các hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp, canh tác, nuôi trồng, các hoạt động vui chơi, du lịch sinh thái,… có khả năng phơi nhiễm với nguồn nước bị ô nhiễm, mang mầm bệnh.
-
Những người bơi lội hay câu cá trong nguồn nước bị ô nhiễm.
-
Người uống phải nguồn nước không hợp vệ sinh có chứa ấu trùng.
-
Ngoài ra một số loài Schistosoma gây bệnh trên động vật có vú có thể gây viêm da do nấm cho người qua con đường tiếp xúc.
3. Các trường hợp nào cần làm xét nghiệm chẩn đoán sán máng
Những người sống và làm việc trong lĩnh vực nông, ngư nghiệp, canh tác, nuôi trồng, các hoạt động vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, bơi lội, câu cá, tắm giặt, rửa xe,… tiếp xúc với nguồn nước bị ô nhiễm, mang mầm bệnh. Khi có các biểu hiện, triệu chứng sau:
- Các biểu hiện trên da: Ngứa nhẹ, nổi bóng nước, các nốt sần, vết xuất huyết nhỏ, nổi mẩn từng đám, một thời gian sau có thể có các biểu hiện: đau các chi, đau đầu, rét run, đổ mồ hôi,…
- Triệu chứng đường tiết niệu sinh dục:
-
Viêm bàng quang, viêm cầu thận, bệnh nhân đái máu, kèm đái rắt, đái buốt, xơ hóa bàng quang.
-
Đau nhức bộ phận sinh dục, phụ nữ có tổn thương đường sinh dục, chảy máu âm đạo. Nam giới có viêm niệu đạo,tổn thương tuyến tiền liệt, tinh hoàn, vô sinh.
- Triệu chứng đường tiêu hóa: Đau bụng không rõ ràng, tiêu chảy, táo bón, tắc ruột. Bệnh nhân khám có gan to và xơ hóa, lách to và đau, cổ trướng.
- Tổn thương hệ thần kinh trung ương: U hạt ở não, tủy sống, viêm tủy kèm liệt mềm.
- Tăng áp lực tĩnh mạch phổi.
- Tăng áp lực tĩnh mạch cửa với triệu chứng nôn ra máu và lách lớn.
- Ho, dị ứng, tăng bạch cầu ái toan rất cao.
- Trẻ em có dấu hiệu thiếu máu, suy dinh dưỡng, khả năng nhận thức và học tập kém tại những vùng có ghi nhận các trường hợp mắc bệnh.
4. Các xét nghiệm chẩn đoán bệnh sán máng
4.1. Chẩn đoán trực tiếp
* Các xét nghiệm tìm sán máng trưởng thành: Thực hiện các kĩ thuật xét nghiệm phân trực tiếp, soi tươi dịch hút tá tràng, sinh thiết tổ chức có thể tìm được sán máng trưởng thành nhưng khả năng phát hiện được không cao.
Hình thể của sán máng trưởng thành: Sán có 2 mồm hút. Con đực cuốn lại như một ống lá dài 1-2cm, rộng 1mm, phần bụng teo thành một rãnh lõm trong đó có con cái nằm ở tư thế giao phối, dài và mảnh hơn. Con cái dài 2cm, rộng 0,5mm.
Hình 2: Hình thể sán máng trưởng thành
* Các xét nghiệm tìm trứng sán
- Xét nghiệm tìm trứng sán là phương pháp có giá trị chẩn đoán cao khi phát hiện hình ảnh trứng sán trong mẫu bệnh phẩm.
- Xét nghiệm soi tươi nước tiểu 24h tìm trứng sán S. haematobium: Nước tiểu được để lắng tự nhiên hoặc ly tâm lấy cặn đem soi tươi để tìm trứng sán.
- Xét nghiệm phân trực tiếp để phát hiện trứng sán S.mansoni và S.japonicum: Nếu số lượng trứng ít có thể bị bỏ sót.
Trong nhiều trường hợp số lượng trứng sán ít nên trên tiêu bản trực tiếp không đủ độ tin cậy, dễ bị bỏ sót nên cần thực hiện một số phương pháp nhằm tập trung trứng sán để tăng giá trị chẩn đoán:
- Phương pháp Kato-Katz: Dùng phát hiện và đếm số lượng trứng sán trong phân và nước tiểu.
- Phương pháp formol- ether: Sử dụng formol để bảo quản mẫu phân và ether để loại bỏ các chất bã, dầu, mỡ trong phân. Sau đó đem mẫu đã xử lý ly tâm, lấy phần cặn lắng xuống đáy đem soi tươi để tìm trứng ký sinh trùng.
- Phương pháp lắng trọng lực: Mẫu phân được hòa tan với nước có pha glycerin và để lắng tự nhiên, thu cặn soi tươi tìm trứng sán.
- Soi tươi dịch hút tá tràng để tìm trứng sán: Có thể phát hiện được nhiều loại trứng sán trong khi xét nghiệm phân không phát hiện được.
- Sinh thiết trực tràng, làm tiêu bản soi tươi tìm trứng: Có thể phân biệt được mọi loại trứng. Các đặc điểm hình thể của trứng sán máng: Trứng hình bầu dục, không có nắp, có gai
- Trứng của S. haematobium: Kích thước 50 x 150 nm, có gai ở một đầu.
- Trứng của S.mansoni: Kích thước 60 x 150 nm, có gai ở bên thân mình.
- Trứng của S.japonicum: Kích thước 60 x 80 nm, hình cầu, bên trong có thể có ấu trùng có lông.
Hình 3: Trứng sán máng gây bệnh trên người
4.2. Chẩn đoán gián tiếp
- Test trên da: Nguyên lý của thử nghiệm là hiện tượng dị ứng trên da sau khi tiêm vào trong da một lượng kháng nguyên được chiết xuất từ sán trưởng thành. Test này thường được dùng trong sàng lọc.
- Xét nghiệm miễn dịch theo phương pháp miễn dịch enzyme (ELISA): rất có giá trị trong sàng lọc và theo dõi điều trị. Kháng thể IgM thường xuất hiện sớm trong vòng 4 tuần đầu sau khi mắc bệnh và mất đi nhanh chóng. Kháng thể IgG xuất hiện sau 4 - 5 tuần kể từ khi ấu trùng xâm nhập vào cơ thể và tồn tại lâu hơn có khi đến hàng năm. Độ nhạy lên tới 98%, độ đặc hiệu trên 85%.
- Xét nghiệm sinh học phân tử: nhằm phát hiện DNA của sán máng. Phương pháp có độ đặc hiệu và chính xác cao nhưng ít phổ biến chủ yếu dùng trong nghiên cứu.
4.3. Một số kỹ thuật kết hợp để chẩn đoán bệnh sán máng
- Xét nghiệm công thức máu: trong trường hợp nhiễm sán máng bạch đầu ưa acid thường tăng, có thể tăng 20 - 60%.
- Xét nghiệm IgE: thường tăng trong các trường hợp có biểu hiện dị ứng.
- Xét nghiệm panel dị ứng để loại bỏ một số tác nhân khác ngoài nhiễm ký sinh trùng.
- Sử dụng phương pháp nội soi bàng quang và trực tràng: có thể gặp hình ảnh sán trưởng thành, các tổn thương nghi ngờ do sán định hướng cho xét nghiệm.
- Một số kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, CT-scanner hoặc X quang cũng giúp tầm soát tổng thể cho bệnh nhân cũng như phát hiện ra các biến chứng giúp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh nhân.
5. Sử dụng mẫu nào để chẩn đoán bệnh?
Bệnh phẩm có thể sử dụng trong các xét nghiệm chẩn đoán có thể là phân, nước tiểu, máu, dịch hút tá tràng, bệnh phẩm sinh thiết bàng quang, trực tràng.
- Bệnh phẩm nước tiểu: Lấy toàn bộ nước tiểu trong 24h, trước khi lấy yêu cầu bệnh nhân vận động (đi lên đi xuống cầu thang vài lần trước khi lấy), nước tiểu phải đựng trong lọ sạch, có nắp vặn kín. Vận chuyển đến phòng xét nghiệm càng sớm càng tốt và không được để lâu quá 4 tiếng.
- Bệnh phẩm phân: Có thể bảo quản bằng formol để bảo quản hình thể của ký sinh trùng. Phân được lấy ở những vị trí bất thường như có máu, nhầy, lỏng, có bọt, nếu phân đóng thành khuôn thì có thể lấy ở bất cứ vị trí nào nhưng tốt nhất là đầu khuôn phân vì ở đó thường tập trung nhiều trứng sán. Trong trường hợp nghi ngờ nhiễm sán trưởng thành có thể lấy toàn bộ lượng phân thu được.
Mẫu phân được bảo quản bằng formol có thể để được trong vòng 8-10 tiếng, những mẫu không có chất bảo quản nên gửi ngay đến phòng xét nghiệm và không quá 4 tiếng.
- Bệnh phẩm dịch hút tá tràng : Thường do bác sĩ tiến thành khi có nghi ngờ nhiễm sán mà các xét nghiệm khác không tìm ra.
- Bệnh phẩm sinh thiết bàng quang, trực tràng: Trong quá trình nội soi thấy có nghi ngờ các bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết bệnh phẩm để làm xét nghiệm.
- Bệnh phẩm máu: Lấy 2ml máu không chống đông, tách lấy huyết thanh. Bảo quản 2 - 8˚C trong vòng vài ngày, -20˚C trong 3 - 6 tháng.
6. Cần lưu ý gì trước khi xét nghiệm sán máng?
Để có được những thông tin về các yếu tố liên quan đến người bệnh trước khi làm xét nghiệm cần khai thác các vấn đề:
- Đặc điểm cư trú, những nơi mà họ từng sống vì bệnh có tính khu trú theo vùng.
- Nghề nghiệp của người bệnh.
- Tiền sử của người bệnh: Đã từng nhiễm sán máng hay chưa?
- Những dấu hiệu lâm sàng của người bệnh: Lý do đi khám bệnh
- Các phác đồ đã điều trị trước đó: Phục vụ cho công tác chẩn đoán và điều trị tốt hơn
- Các kết quả xét nghiệm máu đã được thực hiện: Công thức máu, IgE, Panel dị ứng,...
- Tình trạng sức khỏe của bệnh nhân: Các bệnh lý mạn tính hay suy giảm miễn dịch hay không?
- Do đó người làm xét nghiệm cần sự hợp tác của bệnh nhân, bác sĩ lâm sàng, không những để chọn đúng kỹ thuật xét nghiệm mà còn để phân tích một cách hữu hiệu nhất kết quả xét nghiệm.