CEA là tên viết tắt của kháng nguyên carcinoembryonic. CEA có thể tìm thấy trong nhiều tế bào khác nhau của cơ thể, nhưng thường liên kết với các khối u nhất định và sự phát triển của thai nhi.
1. Khái niệm
Kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA) là một nhóm các glycoprotein không đồng nhất có khối lượng phân tử 200.000 dalton.
CEA bình thường được sản xuất bởi tế bào niêm mạc dạ dày, ruột của thai nhi. Sau khi sinh, CEA biến mất và không còn phát hiện trong huyết thanh nữa. Tuy nhiên, CEA có thể tăng trong nhiều bệnh lý như các bệnh ác tính, đặc biệt là ung thư đại tràng và người hút thuốc lá cũng có thể làm tăng lượng CEA [1].
CEA còn có giá trị trong việc theo dõi đáp ứng điều trị. Với một bệnh lý có tăng CEA, sau điều trị nồng độ CEA giảm thấp nghĩa là các tế bào bài tiết CEA đã được loại bỏ và khi nồng độ CEA tăng trở lại nghĩa là bệnh có khả năng tái phát.
Khi có khối u ở đường tiêu hoá bao gồm cả lành tính và ác tính đều có thể làm tăng mức độ CEA. Ngoài ra, những bệnh ung thư khác như ung thư tuyến tụy, dạ dày, vú, phổi, buồng trứng và tuyến giáp hay hút thuốc, nhiễm trùng, bệnh viêm ruột, viêm tụy, xơ gan và một số khối u lành tính cũng có thể có nồng độ CEA tăng cao [2,3,4].
2. Giá trị lâm sàng
Sự tương quan giữa khối lượng và tế bào của các khối u [2].
Giá trị bình thường: Người không hút thuốc: 0-2.5 ng/mL, người hút thuốc: 0-5 ng/mL (package inser CEA Cobass- Roche).
Xét nghiệm CEA tăng trong các trường hợp sau [2,3,4]:
- Ung thư đại tràng, trực tràng (50% có giá trị CEA > 10 ng/ml);
- Ung thư vú (30% có giá trị CEA >10 ng/ml);
- Ung thư phổi (29% có giá trị CEA >10 ng/ml);
- Ung thư tuỵ tạng;
- Ung thư tuyến giáp;
- Carcinoma niệu - sinh dục;
- Bệnh lý viêm dạ dày - ruột (viêm loét đại tràng, viêm túi thừa, viêm túi mật, viêm tuỵ);
- Xơ gan;
- Những bệnh lý khác của gan;
- Loét dạ dày;
- Hút thuốc lá nhiều;
- Nhiễm trùng phổi.
3. Theo dõi, tiên lượng
Định lượng nồng độ CEA được khuyến cáo chỉ định trước và 3 tháng/ lần trong vòng 2 năm đầu sau phẫu thuật cắt bỏ ung thư đại trực tràng:
Tình trạng giảm trở về giá trị bình thường sau phẫu thuật ở một bệnh nhân có tăng nồng độ CEA trước mổ mang ý nghĩa là khối u đã được cắt bỏ hoàn toàn, trái lại nồng độ CEA vẫn tiếp tục tăng cao sau phẫu thuật chỉ dẫn vẫn còn ung thư tồn dư.
Tăng nồng độ CEA trước mổ là một yếu tố dự đoán độc lập cho một tiên lượng xấu đối với bệnh nhân [1].
* Tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC, xét nghiệm CEA được thực hiện hàng ngày trên hệ thống máy Cobas 8000 và miễn dịch Architect của Abbott. Mẫu bệnh phẩm có thể là huyết thanh, huyết tương và không liên quan đến bữa ăn. Kết quả xét nghiệm được trả sau 1.5 giờ khi nhận mẫu.
Tài liệu tham khảo
1. Perkins GL, Slater ED, Sanders GK, et al; Serum tumor markers. Am Fam Physician. 2003 Sep 15; 68(6):1075-82.
2. Duffy MJ; Carcinoembryonic antigen as a marker for colorectal cancer: is it clinically useful? Clin Chem. 2001 Apr; 47(4):624-30.
3. Duffy MJ; Serum tumor markers in breast cancer: are they of clinical value? Clin Chem. 2006 Mar; 52(3):345-51. Epub 2006 Jan 12.
4. Molina R, Auge JM, Escudero JM, et al; Mucins CA 125, CA 19.9, CA 15.3 and TAG-72.3 as Tumor Markers in Patients with Lung Cancer: Comparison with CYFRA 21-1, CEA, SCC and NSE. Tumour Biol. 2008 Dec 8; 29(6):371-380.