CEA là một kháng nguyên có ở tế bào ruột của thai nhi và khi trưởng thành thì chỉ còn nồng độ rất thấp ở trong máu. Khi bệnh nhân mắc ung thư, đặc biệt các ung thư tế bào biểu mô, nồng độ CEA tăng lên. Các ung thư đại trực tràng, dạ dày, phổi, tuyến tuỵ,... có thể tăng CEA.
1. Sinh học của CEA
CEA là một glycoprotein có ở màng bào tương của các tế bào màng nhày bình thường nhưng số lượng có thể tăng lên trong các ung thư thể tuyến (adenocarcinoma), đặc biệt là ung thư đại trực tràng. Nồng độ trong mô cao nhất của CEA được thấy ở ung thư biểu mô đại trực tràng nguyên phát và di căn gan của ung thư này, với nồng độ CEA trong màng nhày đại tràng có thể cao gấp 500 lần giá trị bình thường. CEA cũng thể hiện quá mức trong các ung thư biểu mô khác như ung thư dạ dày, phổi,... Từ các tế bào ung thư biểu mô, CEA được bài tiết vào máu tuần hoàn.
CEA có thời gian bán hủy là khoảng 2 - 8 ngày.
2. Ứng dụng của CEA
- Theo dõi hiệu quả điều trị, tiên lượng và đánh giá tái phát ung thư đại trực tràng ở bệnh nhân ung thư đại tràng đã được chẩn đoán. Một xét nghiệm CEA ban đầu thường được thực hiện trước khi điều trị như một giá trị “nền”. Nếu giá trị CEA tăng thì có thể được sử dụng để theo dõi đáp ứng đối với điều trị và phát hiện sớm tái phát, di căn.
- CEA cũng có thể được sử dụng như một dấu ấn của các ung thư tuyến giáp thể tuỷ, phổi, tuyến tụy, dạ dày...
- CEA trong một mẫu chất dịch cơ thể có thể giúp xác định xem ung thư đã xâm lấn lan rộng đến một khoang cơ thể (ví dụ: dịch phúc mạc, dịch màng phổi hoặc dịch não tủy). Tuy nhiên, do độ chính xác thấp nên ngày càng ít sử dụng trong lâm sàng
Không phải tất cả các loại ung thư đều sản xuất CEA và tăng nồng độ CEA không phải lúc nào cũng do ung thư. Vì vậy, CEA không được khuyến cáo để sàng lọc trong cộng đồng dân cư không triệu chứng.
3. Chỉ định xét nghiệm
- Xét nghiệm CEA có thể được chỉ định khi một người đã được chẩn đoán ung thư đại trực tràng, dạ dày, phổi. CEA sẽ được định lượng trước khi bắt đầu điều trị và sau đó được xét nghiệm theo thời gian để đánh giá hiệu quả điều trị, tiên lượng và phát hiện tái phát, di căn.
- Đôi khi xét nghiệm CEA có thể được thực hiện khi nghi ngờ ung thư nhưng chưa được chẩn đoán. Đây không phải là một xét nghiệm sử dụng chung cho các ung thư vì CEA có thể tăng trong nhiều bệnh lý khác nhau, tuy nhiên nó vẫn có thể được chỉ định để có thể cung cấp thêm thông tin cho chẩn đoán tùy bệnh cảnh lâm sàng cụ thể.
- Xét nghiệm CEA dịch cơ thể có thể được chỉ định để phát hiện khối u đã xâm lấn hoặc di căn đến các khoang trong cơ thể (ví dụ di căn lan rộng đến khoang phúc mạc, màng phổi hoặc não).
4. Giá trị bình thường
4.1. CEA huyết tương
- Giá trị CEA huyết tương ở người bình thường không hút thuốc lá thường <2,5 ng/ml.
- Giá trị CEA ở người hút thuốc lá thường <5 ng/ml.
- Giá trị CEA huyết tương ở người có bệnh lành tính thường không quá 10 ng/ml.
4.2. CEA trong dịch cơ thể
Nói chung, giá trị CEA trong các dịch chọc dò ở người không bị ung thư có giá trị gần như Giá trị CEA trong huyết tương người bình thường, cụ thể là:
- Giá trị CEA dịch màng bụng ở người không ung thư là < 4,6 ng/mL, giá trị cắt là < 5,0 ng/ml.
- Giá trị CEA dịch màng phổi ở người không ung thư có giá trị cắt là 2,4 ng/ml.
- Giá trị CEA dịch não tủy ở người không ung thư là 1,53±0,38 ng/ml.
5. Ý nghĩa lâm sàng
5.1. Đối với ung thư đại trực tràng
5.1.1. Sàng lọc và chẩn đoán sớm
Độ nhạy lâm sàng của CEA để chẩn đoán ung thư đại trực tràng là 50%, độ đặc hiệu là 90%.
5.1.2. Tiên lượng
- Giá trị CEA có khuynh hướng tăng cao hơn khi bệnh tiến triển. Sử dụng điểm cắt 5 ng/ml.
- Trong ung thư đại trực tràng, giá trị CEA có thể được sử dụng để tiên lượng và phát hiện khối u còn sót lại sau phẫu thuật. Giá trị CEA trước phẫu thuật cũng là một giá trị tiên lượng và xác định giai đoạn của khối u. Nói chung, các khối u có giá trị CEA cao tiên lượng rất xấu.
5.1.3. Theo dõi đáp ứng điều trị và phát hiện tái phát
Sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng, giá trị CEA huyết tương sẽ giảm xuống dần và trở về mức bình thường trong 4 đến 6 tuần lễ. Trong ung thư đại trực tràng, việc xét nghiệm hàng loạt CEA huyết tương là một phương pháp không xâm lấn nhạy nhất để chẩn đoán tái phát của khối u sau phẫu thuật cắt bỏ khối u nguyên phát.
Đối với mỗi bệnh nhân, một giá trị CEA huyết tương ban đầu được xác định làm nền cho sự theo dõi sự diễn biến của bệnh. Khi Giá trị CEA tăng dai dẳng ít nhất trên 2 tháng, có khả năng ung thư bị tái phát.
5.1.4. Phát hiện di căn
Nếu CEA tăng lên trong dịch cơ thể thì rất có thể khối ung thư đã xâm lấn sang các vùng lân cận hoặc di căn đến các vùng tương ứng của cơ thể. Ví dụ, nếu CEA được phát hiện tăng trong dịch chọc dò màng phổi thì có thể ung thư đã di căn lên phổi, màng phổi; nếu CEA được phát hiện tăng trong dịch màng bụng thì có thể ung thư đã di căn vào phúc mạc; nếu CEA được phát hiện tăng trong dịch não tủy thì có thể ung thư đã di căn vào tủy sống hoặc não.
Trong các ung thư khác như ung thư biểu mô dạ dày, thực quản, tụy, phổi, buồng trứng, tuyến giáp thể tủy... Giá trị CEA chỉ tăng khi ung thư tiến triển, tỷ lệ tăng là khoảng 50-70% số các trường hợp .
5.2. CEA trong các bệnh lành tính
Giá trị CEA cũng có thể tăng ở một số bệnh lành tính, gây nên hiện tượng dương tính giả, chẳng hạn như khi viêm phổi, khí phế thũng, viêm gan, xơ gan, viêm loét dạ dày tá tràng, viêm loét đại tràng, polyp trực tràng, bệnh vú lành tính...
Kết luận
1. CEA là một dấu ấn ung thư glycoprotein, được sản xuất từ các tế bào màng nhày của nhiều mô khác nhau, có thể tăng trong các ung thư thể tuyến, đặc biệt là ung thư đại trực tràng.
2. Xét nghiệm CEA huyết tương được sử dụng để theo dõi hiệu quả điều trị và sự tái phát ung thư đại trực tràng. Xét nghiệm CEA dịch cơ thể được sử dụng để đánh giá sự xâm lấn và di căn của ung thư.
3. CEA được chỉ định chủ yếu để theo dõi hiệu quả điều trị, tiên lượng và tái phát của ung thư đại trực tràng, ung thư phổi...CEA cũng được dùng để tầm soát ung thư sớm nhưng không được áp dụng với những người không có triệu chứng hoặc yếu tố nguy cơ thấp.
4. CEA huyết tương thường tăng trong ung thư đại trực tràng tiến triển, giảm về mức bình thường sau phẫu thuật, tăng trở lại nếu tái phát hoặc di căn. CEA dịch cơ thể có thể tăng khi khối u xâm lấn hoặc di căn đến các khoang cơ thể tương ứng.
Tài liệu tham khảo
1. Xét nghiệm sử dụng trong lâm sàng, Gs Nguyễn Thế Khanh, Gs Nguyễn Tử Dương, NXB Y học 2011.
2. Berkovich L, Shpitz B, Ghinea R, et al. Evaluation of peritoneal CEA levels following colorectal cancerJ Surg Oncol 2014 Sep.
3. Cetin B, Atalay C, Aslan S, et al. Peritoneal carcinoembryonic antigen level for predicting locoregional and distant spread of gastric cancer.Surg2005.
4. DuffyCarcinoembryonic antigen as a marker for colorectal cancer: is it clinically useful? Clin Chem 2001 Apr.
5. Kang SJ, Kim KS, Ha YS, et al. Diagnostic Value of Cerebrospinal Fluid Level of Carcinoembryonic Antigen in Patients with Leptomeningeal CarcinomatousJ Clin Neurol 2010 Mar.
6. Levy M, Visokai V, Lipska L, etTumor markers in staging and prognosis of colorectal carcinoma. Neoplasma 2008.
7. Perkins GL, Slater ED, Sanders GK, et al. Serum tumorAm Fam Physician 2003 Sep.
8. Radjenovic-Petkovic T, Pejcic T, Nastasijevic-Borovac D, et al. Diagnostic value of CEA in pleural fluid for differential diagnosis of benign and malign pleuralMed Arh 2009.
9. Thomas L. Clinical laboratory diagnostics. Use and assessment of clinical laboratory results.TH-Book, Frankfurt/ main,1998: 963-965.
10. Uehara M, Kinoshita T, Hojo T, et al. Long-term prognostic study of carcinoembryonic antigen (CEA) and carbohydrate antigen 15-3 (CA 15-3) in breastInt J Clin Oncol 2008 Oct.
Nguồn: huunghihospital.vn