Bệnh nhân N.T. H. (57 tuổi, Hà Nội) đến Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC khám do đau vùng thượng vị.
Quá trình khai thác tiền sử, bệnh nhân cho biết bị sỏi túi mật nhiều năm, khoảng vài tháng nay thấy đau tức nhẹ vùng thượng vị, đã kiểm tra nhiều nơi nhưng chưa phát hiện ra bệnh.
Khi thăm khám, bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, thể trạng trung bình, mạch, huyết áp bình thường và khám bụng không có bất thường. Tuy nhiên, bác sỹ chỉ định bệnh nhân làm xét nghiệm máu, siêu âm, chụp cắt lớp vi tính có kết quả bất thường như sau:
- Xét nghiệm công thức máu có bạch cầu: 7.2 Giga/L (bình thường 4-10 Giga/L), hồng cầu: 4 Tera/L (bình thường 3.8-5.8 Tera/L), tiểu cầu: 244 Giga/L (bình thường 150-450 Giga/L), men gan: AST: 13 (bình thường 10-37 U/L), ALT: 16 (bình thường 10-40 U/L).
- Siêu âm: Hình ảnh dày thành túi mật, khối bất thường vùng đầu tụy rốn gan.
- Chụp cắt lớp vi tính: Hình ảnh u túi mật di căn hạch rốn gan đầu tụy.
Hình ảnh cắt lớp vi tính u túi mật, di căn hạch vùng đầu tụy rốn gan.
Để xử trí kịp thời, bệnh nhân đã được chuyển viện sang Bệnh viện Việt Đức cắt túi mật, nạo vét hạch rốn gan. Chẩn đoán sau mổ: ung thư túi mật.
Dưới đây là một số thông tin về bệnh u túi mật.
1. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Hình ảnh u túi mật.
Sỏi mật có mặt trong 75-90% trường hợp ung thư túi mật, nhưng cơ chế dẫn đến bệnh nguyên vẫn chưa được chứng minh. Các yếu tố nguy cơ ung thư túi mật bao gồm: viêm túi mật mãn tính hay tái phát, tuổi cao và sự hiện diện của sỏi lớn hơn 3 cm. Dị dạng chỗ nối ống mật-tụy cũng có thể là một yếu tố nguy cơ cho ung thư túi mật.
2. Triệu chứng
Giống như với hầu hết các tổn thương túi mật, ung thư biểu mô tuyến giai đoạn đầu có các triệu chứng tương tự như sỏi túi mật hoặc rối loạn vận động mật. Ung thư túi mật khi tiến triển sẽ xuất hiện các triệu chứng quan trọng hơn, chẳng hạn như giảm cân, vàng da, chán ăn, báng bụng, và có khối ở ¼ trên phải của bụng.
Ít hơn 50% ung thư túi mật được chẩn đoán trước phẫu thuật. Tuy nhiên, hầu hết các bệnh ung thư túi mật được chẩn đoán đều ở giai đoạn sau và tỷ lệ sống 5 năm ít hơn 5%.
2. Điều trị
Cắt túi mật được khuyến cáo cho các polyp túi mật nghi ngờ có khả năng hóa ác để giúp phát hiện và điều trị sớm. Các yếu tố nguy cơ ác tính như: có một polyp có kích thước lớn hơn 1cm, viêm đường mật xơ hóa, sự hiện diện của một polyp đơn độc và tuổi bệnh nhân lớn hơn 50 năm. Kết quả siêu âm cho thấy hình ảnh polyp có mạch máu và xâm lấn thành túi mật là những phát hiện đáng nghi ngờ. Một nghiên cứu đã chứng minh rằng 7,4% polyp túi mật có kích thước nhỏ hơn hoặc bằng 1 cm là ung thư và đề nghị cắt bỏ túi mật đối với các tổn thương có kích thước lớn hơn hoặc bằng 6 mm.